Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011

Bạn xứng đáng được trả bao nhiêu?

Bạn xứng đáng được trả bao nhiêu?
Trừ phi bạn có ý định sống lang thang trên hè phố, làm các công việc vặt hoặc may mắn được hỗ trợ bởi bố mẹ hay các nhà hảo tâm giàu có, hầu hết chúng ta đều đã từng ít nhất một lần tự hỏi mình rằng: “Tôi xứng đáng được trả lương bao nhiêu?” Mức lương chi trả và giá trị công việc của bạn vẫn luôn là một bí ẩn lớn.

I – Thay lời giới thiệu

Nếu bạn tìm kiếm trên Internet và thậm chí đi hỏi những người khác để đi tìm một lời khuyên về mức thu nhập – đặc biệt là dành cho các họa sĩ, thì các câu trả lời mà bạn nhận được rất chung chung và nằm trong  diện “Bí mật không thể nói”. Đối với nhiều người, mức lương khởi điểm là thứ rất khó đánh giá. Dĩ nhiên trong mức độ nào đó, những gì bạn có thể được trả  tùy thuộc vào cấp độ kỹ năng của bạn, nhưng trong phạm vi của bài viết này, tôi chỉ hướng tới thảo luận rằng những gì mà trung bình một thương nhân, một người làm việc tự do (freelancer), một họa sĩ hay một nhiếp ảnh gia cần được chi trả ở mức rất thấp!
Thu nhập là nấc thang và là một trong số các thước đo thành công của bạn trong công việc
Trong bài viết này, tôi sẽ sử dụng trải nghiệm của chính bản thân tôi trong vai trò một người làm việc tự do trong gần 10 năm qua và trong quá trình làm việc tại công ty của chính mình, LunarStudio. Trải nghiệm tương tự có thể áp dụng cho hầu hết mọi người ở nhiều tình huống cụ thể khác nhau.
Cá nhân người dịch (elpvn) đã cố gắng để chuyển ngữ và quy đổi một vài phép tính cho phù hợp với mặt bằng chung của người Việt, và để đảm bảo nhất quán cũng như có sự so sánh nhất định nào đó, tôi vẫn giữ nguyên các mức thu nhập tương đương của các đồng nghiệp ở Mỹ sử dụng trong bài viết gốc. Dĩ nhiên từ góc độ cá nhân có thể vẫn còn nhiều thiếu sót và không thể tránh được tính cảm quan. Nhưng về cơ bản tôi sẽ cố gắng để thực hiện điều đó một cách xác thực nhất với môi trường Việt Nam và hy vọng nó thực sự hữu ích đối với một ai đó.

II – Internet – Kẻ chi phối thù lao toàn cầu

Tại thời điểm trước khi Internet phát triển tới mức chóng mặt và phổ biến như hiện nay, nếu bạn muốn mua một chiếc TV, bạn có thể phải chạy xe vòng quanh thị trấn tới một vài cửa hiệu điện tử để hỏi mua. Mức giá mà bạn phải chi trả gần như là cố định.
    Bạn không còn phải xếp hàng dài ở các cửa hàng để mua sắm như thế này trong kỷ nguyên Internet
Nếu bạn chạy tới một cửa hàng cạnh tranh bên cạnh đó, bạn có thể giảm được vài chục dollar. Nếu bạn chạy xe xa hơn – có lẽ là tới một thành phố khác – mức giá còn có thể khác biệt hơn nhiều, tăng hoặc giảm xuống vài trăm USD. Ở đây thực sự không có bất kỳ một thang giá nào để so sánh giữa các khu vực khác nhau. Các mức giá nhiều hoặc ít được ước định đưa ra dựa vào mức độ sẵn có của mặt hàng và mức thu nhập bình quân của nơi mà bạn đang sống.
Bước vào kỷ nguyên mua sắm trên Internet. Không còn cảnh mọi người bị giới hạn bởi các cửa hàng điện tử ở cạnh họ nữa. Giờ đây, nếu bạn nhìn thấy một chiếc TV mà bạn thích tại một khu vực/cửa hàng cụ thể nào đó, bạn có thể trở về nhà và thực hiện một cuộc tìm kiếm chiếc TV tương tự mẫu đó trên Internet thông qua các công cụ tìm kiếm trực tuyến như Google.
Đây là thời đại mà Internet đang chi phối mức lương bạn được trả
Trong giai đoạn phôi thai của Internet, bạn có thể khám phá ra những khoản tiết kiệm khổng lồ từ chính xác cùng một sản phẩm, có thể thậm chí còn được giao hàng miễn phí và không phải trả thêm khoản thuế giá trị gia tăng nữa! Bỗng nhiên, bạn nhận ra rằng đây là một cơ hội tuyệt vời để gia nhập vào thế giới giao dịch trực tuyến. Bạn được nhìn thấy những gì mà mức giá một công ty ở một khu vực nào đó đưa ra, và mức giá mà một công ty khác ở khu vực khác đưa ra là hoàn toàn khác biệt. Đây là một sự so sánh về mua sắm trên một cấp độ lớn, mang tính tức thời và thuận lợi hơn.
Đồng tiền của bạn đã đi đâu? Hãy quan sát biểu đồ này của giới thống kê tiêu dùng Mỹ để biết hành trình của từng món tiền rời khỏi ví bạn…
Một mặt nào đó, Internet đã ảnh hưởng tới việc phơi bày những mức giá đặt cao quá thái, và ở khía cạnh khác nó cũng là nơi trưng bày các mức giá “không thể tốt hơn”. Theo thời gian, các mức giá cao và thấp xuyên suốt cả quốc gia dần đi tới một cấp độ ngang bằng. Các cửa hàng địa phương nơi bạn sống cũng bắt đầu đưa ra mức giá cho chiếc TV mà bạn muốn mua ngang bằng với mức giá mà bạn có thể tìm thấy trên Internet. Các ranh giới ban đầu được thiết lập dựa trên sự thiếu hụt các thông tin và giới hạn khoảng cách địa lý giờ đây bắt đầu bốc hơi.  Internet đã trở thành kẻ định giá vĩ đại!

III – Một phép thử giản đơn

Giờ đây có thể bạn sẽ tự hỏi bản thân mình rằng, làm thế nào để áp dụng điều đó một cách chính xác đối với công việc kinh doanh của bạn? Có sự tương đồng nhất định khi áp dụng cho các dịch vụ của bạn. Chẳng hạn như các mức giá hàng hóa xung quanh đất nước bắt đầu tiến tới ngưỡng thống nhất, mức giá cao và thấp của những gì bạn có thể đặt ra cũng vì thế mà bị ảnh hưởng. Mọi thứ bao gồm cả mức thu nhập bình quân và mức lương chi trả cũng bắt đầu tiến mức phổ thông mà các nơi khác thường đưa ra. Trong một vài nơi còn lại ở đất nước bạn, vẫn sẽ có những mức chi phí sinh hoạt cao hơn và những điểm khác biệt chính sẽ nằm ở mức lương, nhưng các sự khác biệt này sẽ dần dần được điều chỉnh phù hợp.
Hãy lấy ví dụ về hai họa sĩ số đang làm việc ngoài sự chi phối của Internet. Một người đang ở một nông trại đồng quê – một nơi nào đó tại TP. Vinh – Nghệ An. Chúng ta tạm gọi anh này là “Họa sĩ A.” Họa sĩ A đang có một mức sinh hoạt phí rất thấp. Anh ta chỉ phải chi 500 ngàn đồng mỗi tháng để thuê phòng.  Hầu hết các hóa đơn của anh đều có tốn tương đối ít tiền.
    Họa sĩ A làm việc đơn giản với các công cụ truyền thống, ít tốn kém và sinh hoạt ở mức bình dân hơn
Giờ đây hãy nói về “Họa sĩ B.” Họa sĩ B sinh sống ở trung tâm thành phố Hồ Chí Minh. Mức giá thuê phòng mà anh ta phải trả tầm 2 triệu đồng mỗi tháng. Mức phí sinh hoạt chung của anh này dĩ nhiên là cao hơn anh Họa sĩ A.
Họa sĩ B làm việc trong môi trường công nghiệp và sang trọng hơn, đòi hỏi phải trang bị nhiều thứ tốn kém hơn
Hãy đặt giả thiết rằng cả hai họa sĩ này đều tạo ra những tác phẩm có cùng chất lượng (trong một phạm vi so sánh tương đương nào đó). Hãy thử đoán xem liệu ai sẽ đưa ra mức giá cho sản phẩm cao hơn để theo kịp mức phí sinh hoạt của họ? Câu trả lời dĩ nhiên là Họa sĩ B.
Thật không may, Họa sĩ A có thể dễ dàng bỏ thầu với mức giá đắt hơn cả Họa sĩ B. Ở một góc độ khác, Họa sĩ A có thực sự công bằng trong việc mạnh miệng đưa ra mức giá đắt hơn Họa sĩ B hay không? Trong một phạm vi ngắn hạn hoặc mang tính thời vụ, điều đó có thể là một quyết định đúng. Dù chi phí bỏ ra để duy trì cuộc sống của họa sĩ A là thấp hơn nhiều so với Họa sĩ B, nhưng hãy đoán thử xem điều gì xảy ra? Các mức giá của những chiếc TV mà họ đang xem trước đó vẫn duy trì ở mức giống nhau!
    Ngoài chất lượng tác phẩm, thì mức thù lao là mẫu số chung mà cả họa sĩ A và họa sĩ B đang trông đợi
Họa sĩ A phải làm việc chăm chỉ hơn để đáp ứng mức giá phải trả để mua chiếc TV bởi vì mức giá sinh hoạt mà anh ta chi ra thấp hơn nhiều. Họa sĩ B cũng phải nhận nhiều việc hơn để làm thêm tại nhà (bởi vì anh ta phải trả cho những hóa đơn có mức giá cao hơn) nhằm đua tranh với Họa sĩ A trong việc mua sắm chiếc TV. Cả hai họa sĩ phải lao động nhiều hơn để cho ra nhiều tác phẩm hơn, đơn giản là vì cuộc đua tranh của họ giờ đây đã diễn ra thông qua Internet.
Vậy giải pháp nào để giải quyết vấn đề này? Bạn có thể chọn chờ đợi “sự giải hòa vĩ đại từ Internet” – nhưng liệu nó sẽ kéo dài tới bao lâu thì có Chúa mới đoán được, dù rằng ở mức độ nào đó thì tất cả chúng ta đều phải chờ đợi. Bạn cũng có thể thử tạo ra những tác phẩm về căn bản là tốt hơn và đưa ra mức giá cao hơn, nhưng điều này không phải khi nào cũng diễn ra như bạn nghĩ, đơn giản là người ta sẽ không thừa nhận nó tốt hơn và đi tới một xu hướng là sẽ trả những mức giá thấp nhất.
    Đừng bao giờ để mình rơi vào hoàn cảnh như thế này. Hãy chủ động tiếp cận và tạo cơ hội cho bản thân
Bạn cũng có thể thực hiện những tác phẩm có chất lượng tệ hơn, và đó là lúc mà nó trở thành một trò chơi của những con số thông qua việc liệu sẽ có bao nhiêu khách hàng đổ xô vào các cửa hàng để lùng mua nó trước khi họ kịp nhật ra rằng họ đang nhận được những tác phẩm không đạt chuẩn. Xét về bản chất, bạn vẫn thực hiện cùng một khối lượng công việc. Nếu bạn muốn tăng chất lượng thì dĩ nhiên bạn phải chi trả thêm cho nó.
Những gì mà một người trung bình đã làm (phải thừa nhận một cách mặc nhiên rằng các kỹ năng của bạn là trung bình) là đi tìm một sân chơi tầm trung – một mức độ hài lòng vừa phải. Một mức giá không “quá cao” và cũng không “quá thấp”. Cũng như sự tiến bộ các kỹ năng của bạn, bạn sẽ có cơ hội thay đổi mức đó lên nhiều hơn theo thời gian khi mà các dịch vụ của bạn tiến tới đáp ứng những nhu cầu lớn hơn.
    Những ý tưởng đột phá và “hàm chứa chất lượng” như trang themilliondollarhomepage.com này luôn được đánh giá cao
Điểm quan trọng ở đây là bạn không cần phải làm hài lòng bất kỳ ai bằng việc đưa ra mức giá thấp hơn so với anh bạn họa sĩ đồng nghiệp (hay với một thương gia nào đó) trong thời đại Internet. Trong thực tế, bạn có thể khiến mình bị hại nhiều hơn là có lợi. Cuối cùng, bạn cần cung cấp một sản phẩm chất lượng với một dịch vụ uy tín, và hy vọng rằng những thứ đó sẽ tạo ra sự khác biệt lớn. Trong một thế giới hoàn hảo, chúng ta muốn đưa mọi thứ về cùng một mức giá tương đồng, và chỉ những sản phẩm nào có giá cao hơn thì mới có [khả năng] chất lượng tốt hơn.

IV – Các so sánh khác

Vậy bạn đã tìm kiếm xung quanh Internet và kiểm tra xem những gì mà các đối thủ khác và các đồng sự đưa ra. Bạn sẽ thấy một nhân vật vô danh nào đó đang ở đâu đó cố gắng đưa ra mức giá 25USD cho một bức ảnh mà anh ta muốn bán. Trong khi đó ở chỗ khác, bạn thấy một nhân vật khác với một tác phẩm khác trông có vẻ tốt hơn chút xíu nhưng lại đưa mức giá cho bức ảnh đó của anh ta lên tới ngưỡng 250USD. Liệu mức giá nào đáng quan tâm hơn cả?
Vội vã tìm việc đôi khi khiến bạn phải chịu nhiều thiệt thòi về thù lao
Có lẽ cũng giống như hầu hết mọi người khác, bạn sẽ xem xét đến lời đề xuất của nhân vật “vô danh” ở trường hợp thứ nhất và và chỉ bắt đầu với mức giá đó và cố gắng kiếm đủ sống. Xu hướng ban đầu có thể trả một mức giá thấp – cụ thể là 25USD. Nhưng bạn có thể bán đứt bản thân một cách ngắn hạn như vậy hay không? Có thể nếu bạn dám đưa ra mức giá gần 250USD để bán tác phẩm của mình, người ta sẽ thấy tác phẩm của bạn “chuyên nghiệp hơn” hoặc “có giá trị hơn.” Đó là một câu hỏi khó với một câu trả lời xem ra còn khó hơn…
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy nhìn sang các lĩnh vực khác với một số định mức cơ bản.
Lấy ví dụ đối với một thợ nước hoặc một thợ điện. Họ có thể dễ dàng kiếm được chừng 10USD-15USD/mỗi giờ (ở Mỹ con số này là 100USD-150USD/giờ). Nếu nguồn điện của bạn bị hỏng hóc hoặc nhà vệ sinh của bạn không hoạt động  – bạn không có lựa chọn nào thay thế nó thực sự từ việc cố gắng tự sửa nó. Bạn buộc sẽ bỏ ra nhiều hoặc ít hơn các mức giá đó để sửa chúng. Mặt khác, đó cũng là một lý do mà tại sao bạn phải bỏ ra mức giá đó để chi trả cho họ. Dù ở các mức giá đó, tôi cũng không thấy có nhiều người kiếm sống lâu dài với nghề thợ điện hay thợ sửa ống nước. Mức chuẩn mà họ nhận được đã bao gồm cả mức phí rủi ro và tưởng thưởng (vì đã giúp công việc của bạn hoạt động suôn sẻ trở lại) thật ra chỉ nằm ở mức trung bình.
    Đối với giới nhiếp ảnh, không nhất thiết phải có “súng dài” mới “bắn” được “gấu” lớn :D
Thế các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp thì sao? Họ có được những hợp đồng béo bở 200USD-300USD / ngày (ở Mỹ tầm 1500USD – 2500USD/ngày). Thoạt trông có vẻ họ là những kẻ giàu có, nhưng có những khoản trong số đó họ phải để dành đủ để tiêu pha trong vài ngày trước khi đàm phán với các khách hàng tiềm năng, một vài ngày trong quá trình xử lý ảnh sau khi chụp, và một vài ngày sau khi hoàn tất hợp đồng đó có thể họ sẽ chẳng có gì để làm cả. Đó là chưa kể chi phí tân trang thiết bị nữa!
Với các kiến trúc sư, bạn sẽ được trả bao nhiêu khi mà giả sử các công ty sẽ tính lương cho bạn theo giờ làm việc? Mức trung bình mỗi giờ lao động của một Kiến trúc sư tầm 125USD/giờ. Còn các chủ nhiệm thiết kế, các kiến trúc sư uy tín? Con số đó của họ có thể được đẩy lên tầm 200USD/giờ.
    Không phải ngẫu nhiên mà mức lương dành cho giới KTS chúng tôi cao hơn so với một số ngành nghề khác. Chi phí học hành, sự đa dạng về kiến thức cũng như các đòi hỏi về sáng tạo và tính toán là những yếu tố làm nên một KTS
Giờ đây hãy nhìn xem công việc Họa viên kiến trúc của tôi nó như thế nào. Việc điều hành công ty của tôi (vẽ các tác phẩm, vận dụng các kiến thức 3D, tự học, marketing, lập danh sách đơn hàng, bán hàng, v..v..) phức tạp hơn bất kỳ công việc nào khác mà cá nhân tôi đã từng thấy và đòi hỏi nhiều kỹ năng cũng như sự đa nhiệm trong cách thức xử lý công việc. Bạn nghĩ xem liệu tôi đáng được trả bao nhiêu nếu tôi trải qua một giờ làm việc trong công ty của chính mình?
Bạn có thể tự nói với bản thân rằng, “OK, nghệ thuật không quan trọng lắm.” Tuy nhiên, trong lĩnh vực của tôi, tôi nhận thấy đó là sự thật. Công việc vẽ minh họa của tôi giúp bán được nhiều tòa nhà có giá trị cả triệu dollar dựa trên các ý tưởng và các bản vẽ kỹ thuật. Nếu một ai đó đang lên kế hoạch chi ra 50 triệu USD  để xây dựng một cao ốc nào đó và họ cần có hàng loạt bản vẽ và những bức phối cảnh hoàn mỹ, liệu bạn có nghĩ rằng có đáng để bỏ ra 10,000 USD hoặc nhiều hơn thế cho phần việc đó không? Dĩ nhiên là đáng để duyệt rồi. Tác phẩm của tôi cũng cần có sự thông qua của Hội đồng thành phố về mặt luật xây dựng. Về cơ bản, các bản vẽ phối cảnh đó sẽ cho các nhà thiết kế hình dung xem liệu nó sẽ trông ra sao trước khi thi công, và nó sẽ giúp công việc của họ diễn ra nhanh chóng hơn. Đó là một dịch vụ hữu ích đối với mọi người và các công ty.
Ngoài thiết kế, bạn còn phải chịu trách nhiệm về nhiều thứ khác khi quản lý một công ty
Vậy tôi sẽ hỏi lại bạn một lần nữa – Bạn nghĩ tôi đáng được trả bao nhiêu? Công việc của tôi phức tạp hơn mức bình thường và nó rất hữu ích với nhiều người. Ngồi nhẩm tính lại, tôi đã trải qua gần 10 năm công tác, làm việc và nghiên cứu 16 giờ một ngày, chiếm gần 7 ngày mỗi tuần mà hầu như không có bất kỳ một kỳ nghỉ lễ nào. Vậy với chừng ấy công sức và những nỗ lực mà tôi đã bỏ ra trong công tác thì liệu tôi có đáng được xếp đầu về mức chi trả hay không?
Tôi sẽ nói lại kết luận mà tôi đã đề cập ở phần trước. Bạn sẽ không hào hứng với những gì mà bạn đang làm nếu biết rằng chúng được trả giá thấp. Đó chỉ là các phần việc mang tính thời vụ, điều tương tự cũng được áp dụng  trong việc tính phí cao, trừ phi bạn xác định được rằng sẽ sản xuất nó ở mức độ chất lượng tốt hơn với một dịch vụ tốt hơn. Bạn cần tìm một sân chơi tầm trung!

V – Giải mã các chi phí sinh hoạt

Giờ đây tôi có ít nhiều lý do cho lập luận của mình rằng, khoảng cách địa lý đang ngày càng trở nên không thích đáng trong kỷ nguyên số, hãy giả sử rằng bạn là một họa sĩ chuyên nghiệp với mức sống trung bình, đang sống độc thân ở một căn hộ trong một thành phố.
Một mình tồn tại giữa thị thành quả là một thử thách không nhỏ
Nhắc lại là giả sử bạn độc thân và dĩ nhiên là chưa có con cái. Tất cả những gì bạn làm là làm việc tự do, bán thời gian cho các khách hàng. Điều này “có lẽ” là một tình huống rất phổ biến trong thời đại này, đặc biệt với dân số trẻ ngày càng tăng như ở Việt Nam. Hãy thử tính các chi phí trang trải cho cuộc sống của bạn:
  • Thuê phòng: 1,5 triệu/tháng ~ 18 triệu/năm (tương ứng 1500USD/month ở Mỹ).
  • Tiền điện: 250 ngàn/tháng ~ 3 triệu/năm (tương ứng 250USD/month ở Mỹ)
  • Xã giao phí (đám cưới/sinh nhật/…):  400 ngàn/tháng ~ 4,8 triệu/năm (tương ứng  250USD/month ở Mỹ)
  • High-Speed Internet/Digital Voice/Truyền hình cable:  200 ngàn/tháng ~ 2,4 triệu/năm (tương ứng 200USD/month ở Mỹ).
  • Cước điện thoại di động (cộng thêm cước truy cập dữ liệu): 300 ngàn/tháng ~ 3,6 triệu/năm (con số này ở Mỹ là 80USD/month)
  • Chi phí xăng dầu, phương tiện đi lại: 500 ngàn/tháng ~ 6 triệu/năm (tương ứng 300USD/month ở Mỹ)
  • Tạp phẩm & ăn uống:  2 triệu/tháng ~ 24 triệu/năm (tương ứng 200USD/month ở Mỹ)
TỔNG CỘNG:  61,8 triệu VND/năm, tức là khoảng hơn 5 triệu VND/tháng (con số này tương ứng với mức phí sinh hoạt tầm 33,360USD/year ở Mỹ).
Điều này có nghĩa là bạn phải kiếm ra ít nhất mỗi tháng 5 triệu VND để trang trải các hóa đơn sinh hoạt của mình. Thậm chí tôi còn chưa tính tới các khoản chi xài khác như phí duy trì thẻ tín dụng, bảo hiểm y tế, các trang thiết bị (phần cứng/phần mềm) phục vụ cho công việc, các khoản quỹ phụ thu của các tổ chức như công đoàn hay từ thiện…
  • Bảo hiểm (gói trung bình của BHXH và BHYT, cũng như các dịch vụ bảo hiểm khác): 200 ngàn VND/tháng ~ 2,4 triệu/năm (3,600USD/year ở Mỹ).
  • Phí duy trì Thẻ tín dụng / các dịch vụ thanh toán điện tử:  100 ngàn/tháng ~ 1 triệu năm (tương ứng 150USD/month ở Mỹ).
  • Chi phí cho trang thiết bị (nâng cấp máy tính, phần mềm, điện thoại, sửa chữa…): 20 triệu/năm (tương ứng 2500USD/year ở Mỹ)
  • Tổng chi phí đã tính ở phần trước: 62 triệu/năm  (tương ứng USD33,360/year ở Mỹ).
TỔNG CHI PHÍ THỰC TẾ  XEM XÉT Ở CẤP ĐỘ THỨ NHẤT:  gần 84 triệu VND/năm (tương ứng 41.260USD/year ở Mỹ).
Vậy chúng ta phải chạy đua với công việc và thời gian để cố gắng kiếm đủ hơn 84 triệu/năm để trang trải tiền sinh hoạt. Đó là chưa tính tới 1/3 tiền thuế kinh doanh, 10% trừ vào phần lương hàng năm để chi trả phần bảo hiểm lương hưu, tích trữ thêm cho chi phí giao dục con cái sau này, và tích trữ cho các khoản để mua một căn hộ trong tương lai (phải có nhà mới kiếm được vợ chứ =))).Tôi nhẩm tính những khoản đó và đưa ra một con số ước đoán (trong phạm vi tương đối) để đi đến con số dưới đây.
TỔNG CHI PHÍ THỰC TẾ XEM XÉT Ở CẤP ĐỘ THỨ HAI: 84 triệu + 30% ~ 110 triệu/năm (tương ứng 60.000USD/year ở Mỹ).
Vậy đó! Bạn cần tới hơn 100 triệu/năm (tôi mạnh dạn làm tròn con số này cho đỡ ngợp) chỉ để duy trì sự tồn tại của bản thân bạn ở một thành phố! Làm sao mà hầu hết mọi người làm được điều đó? Họ phải quản lý chi tiêu của mình, nhưng thường thì họ luôn phải nỗ lực đấu tranh để giữ cho cái đầu mình tỉnh táo trước nguy cơ ngập lụt trong hóa đơn. Và thông thường người ta còn phải chia sẻ thu nhập với các bạn cùng phòng hoặc bạn đời (kết hôn) của mình nữa.
Trong đầu bạn lúc nào cũng vang lên: Tiền… tiền… tiền
Thêm một khó khăn nữa, những điều không may như cơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2009, và bạn thực sự phải đối diện với… vực thẳm! Trên đây là một vài thống kê về mức thu nhập và lương bổng bình quân ở Việt Nam và ở Mỹ
Tôi không có ý xua đuổi hay làm ai hoảng sợ, nhưng thực sự điều mà tôi đang muốn nói đến là bạn cần kiếm tối thiểu được khoảng tầm 100 triệu/năm để tồn tại trong năm 2010 này!

VI – Bạn đáng được trả bao nhiêu?

Hãy tạm đồng ý rằng mức chi phí 100 triệu/năm là mục tiêu ta phải đạt được. Vậy liệu mỗi tuần chúng ta cần kiếm được tối thiểu bao nhiêu? Cần biết rằng bạn sẽ phải làm việc khoảng 50 tuần mỗi năm. Giải mã ra ta có con số 2 triệu/tuần hay nói cách khác là 8 triệu/tháng. Xin nhắc lại, tôi xin làm tròn con số đó, bạn sẽ cần kiếm được tối thiểu 8 triệu/tháng!!! Một con số có thể gây choáng với một vài bạn đang trong giai đoạn manh nha rời khỏi ngưỡng cửa đại học!
Bạn thường xuyên phải đối mặt với áp lực deadline trong các dự án
Như đã nói, bạn là một họa sĩ và bạn may mắn nhận được hai ba dự án cho mỗi tháng, điều đó có nghĩa là bạn cần dành mỗi tuần cho một dự án nào đó trong số các dự án được giao phó. Mỗi dự án (phần việc) bạn cần phải kiếm được 4 triệu để đạt được mục tiêu 100 triệu/năm.
Giả sử (và đây là một giả thiết ở mức lý tưởng) rằng tất cả những chiêu tiếp thị của bạn hoạt động hiệu quả và bạn có thể đảm nhận để thu hút được cỡ 4 dự án mỗi tháng, thì nhiệm vụ của bạn chỉ còn là kiếm được ít nhất 2 triệu/cho mỗi dự án – đây là mức giá thấp và có lẽ khá dễ để đạt được. Tại mức giá thấp nhất đó, bạn thực sự mạo hiểm đối với kế sinh nhai của bạn và cả tương lai của chính bạn nữa! Đó là sự thật, có thể bạn không chỉ phải mạo hiểm với các giới hạn (bao gồm cả sức khỏe lẫn các deadline của các dự án), mà thay vào đó còn phải luôn tập trung về phía trước!
Vậy, một người chúng ta phải kiếm được bao nhiêu? Trong thực tế, bạn chỉ có thể kiếm nổi trung bình khoảng 2 dự án (công việc) mỗi tháng – nếu có thể. Nhưng hầu hết các họa sĩ lại không làm được điều đó. Hoặc là bạn sẽ cần phải cải thiện rất nhiều các chiến lược tiếp thị của bạn và kiếm nhiều việc hơn, hoặc là đáp ứng các công việc có khối lượng trung bình để đạt được mục tiêu 8 triệu/tháng.
    Điều mà bạn quan tâm là công việc của bạn được trả bao nhiêu? Và con số đó có đủ để nuôi sống bạn hay không? Hay lại tiếp tục thất nghiệp...
Thử đoán xem hầu hết các họa sĩ render chuyên nghiệp trong các dự án game đỉnh cao thường được trả bao nhiêu cho mỗi hình ảnh mà anh ta tạo ra? 20 triệu hoặc hơn. Tôi đã từng nghe rằng có những họa sĩ được trả tới mức 150 triệu cho mỗi hình ảnh tốt nhất mà anh ta thực hiện được. Họ có thể mất khoảng nửa tháng chỉ để làm việc với một bức ảnh duy nhất đó, nhưng đó cũng có thể là bức ảnh (phần việc) duy nhất mà họ phải làm trong tháng. Nếu họ nhận được hai hoặc nhiều hơn, thường thì họ sẽ rất đỗi vui mừng. Tháng tiếp theo của họ có thể chẳng có đơn đặt hàng nào cả.
Trong hoàn cảnh đó, bạn có thể dành khoảng thời gian đó cho học tập, nghiên cứu, thực hiện các tác phẩm cho cá nhân mình hoặc làm các công việc mà bạn không yêu thích lắm với những mức giá bèo bọt. Thực hiện những tác phẩm có chất lượng tổng thể thấp hơn sẽ là công việc mà bạn có lẽ phải ôm lấy trong suốt khoảng thời gian thất nghiệp này – Tất cả điều ấy chỉ để phục vụ mục đích lâu dài mà bạn đã đề ra.
    Thù lao được chi trả ngày càng cao do chính các chi phí vận hành và nhu cầu sinh hoạt trên thị trường ngày càng đắt đỏ
Tôi cũng đã từng được biết rằng có những Studio 3D uy tín đã nhã nhặn chi trả khoảng vài chục triệu đến cả trăm triệu cho mỗi hình ảnh mà các họa sĩ 3D của họ tạo ra. Nhưng như thế có mà đi ăn cướp à? Tuyệt đối không! Họ chỉ đơn giản là đang cố gắng đáp ứng các nhu cầu thay đổi kinh tế đang vùn vụt đến mức chóng mặt của xã hội.
Có thể bạn đang tự huyễn mình rằng, “Haha, tớ không phải sống trong một thành phố, vậy tớ không cần phải chi phí nhiều khoản như vậy” hoặc “Tớ đã lập gia đình và chẳng áp dụng được điều gì từ những mớ thống kê nhàm chán này cả". Tôi thành thật xin thưa với bạn rằng, đừng có trở nên lố bịch như thế nữa! Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên số, nên các ranh giới và chuẩn mực đó không còn nữa! Vấn đề chỉ còn là thời gian trước khi sân chơi trở nên cao hoặc thấp hơn mức mà bạn đang hình dung thôi.
Cân bằng giữa thời gian bỏ ra và mức thù lao nhận được chính là chìa khóa thành công cho việc áp giá đối với khách hàng. Đừng thắc mắc rằng tại sao bạn có thời gian nhưng vẫn không có tiền? Hãy bán nó cho công việc và bạn sẽ nhận được phần tương xứng!
Không có lý do gì để bất kỳ ai trong số chúng ta trở nên tự mãn chỉ để đơn giản là đấu tranh và “lướt qua” để giữ cho sự kiêu hãnh của bạn bồng bềnh trên mây khói. Nếu biết đánh giá công việc và những nỗ lực khó khăn mà bạn giành được lớn hơn mức giá tối thiểu mà bạn phải cố đáp ứng, thì bạn cần thay đổi tư duy của bạn.
Hãy mạnh dạn ra giá ít nhất tầm 4 triệu cho mỗi dự án là một mục đích tốt mà bạn cần đạt được khi bắt đầu công việc một mình. Trong thực tế điều này không phải khi nào cũng có thể, nhưng bạn cần phải giữ được mục tiêu đó trong tâm trí mình. Thực ra, tôi đã đi hơi xa khi nói rằng bạn cần phải ghi nhớ mình cần đạt được hơn 20 triệu cho mỗi dự án trong tâm trí bạn, nhưng giá trị công việc của bạn càng tiến tới con số đó, thì thù lao bạn nhận được sẽ càng tiến đến một con số xứng đáng. Đừng bán bản thân mình một cách ngắn hạn và rẻ rúng nhé!

VII – Hãy thực tế hơn…

Vậy nên, giờ đây tôi hy vọng mình sẽ thuyết phục được bạn rằng có thể đã được trả… quá thấp, tôi xin đề cập đến một góc độ khác. Thử đóng vai bạn là một nhà doanh nghiệp đối với một nhân viên xem sao nhé. Bạn không chỉ phải đạt được con số 100 triệu ban đầu cho mình mà chúng ta đã nhẩm tính ở phần trước, mà bạn cũng phải đảm mức lương tương xứng cho các nhân viên của bạn trong suốt cả năm.
Trình độ học vấn luôn đóng vai trò quan trọng trong mức lương mà bạn được trả
Trong các lĩnh vực kỹ thuật, có thể mức lương tầm 80 triệu (hoặc hơn) trong mỗi năm là khoản thu nhập dễ dàng. Bạn cũng không chỉ đơn giản là muốn có một tay trợ lý – bạn muốn xứng đáng để tạo ra lợi nhuận với những rủi ro và trách nhiệm mà bạn đang tự mình nắm giữ thêm. Do vậy, về cơ bản bạn cần thực hiện khối lượng công việc gấp đôi và chi trả đủ để giữ cho cái đầu của bạn ngoi ngóp được trên cán cân chi phí sinh hoạt.
Người họa sĩ cần không ngừng nghĩ về “cái tôi, bản thân tôi, và tôi.” Trừ phi bạn có một món hàng độc nào đó, nếu may mắn, hoặc sở hữu một phong cách độc nhất vô nhị nào đó – bằng không thì “danh tiếng” mà bạn có thể đang tìm kiếm sẽ thường rất khó nắm bắt. Bạn cần lôi được cái tôi ra khỏi tâm trí của một người họa sĩ độc lập.
Hãy thử hình dung một xíu rằng bạn đang có một công ty chính thức. Những gì mà bạn đã tính toán ở các phần trước đều bắt đầu trở nên nhỏ bé đi một cách nhanh chóng. Bạn không chỉ những hướng đến cột mốc 20 triệu, mà bạn còn phải đặt tầm nhìn lên những mức thậm chí còn cao hơn con số đó nhiều lần!
Bạn cần thêm các đối tác và kỹ năng team-work để đạt được hiệu quả cao nhất

VIII – Thay lời kết

Tôi có nhiều lý do để viết bài chuyên đề này. Đặc biệt, tôi đã từng thấy nhiều họa sĩ tự vấn bản thân họ trong suốt nhiều năm rằng, “tôi nên đưa ra mức giá bao nhiêu?” Tôi cũng đã được thấy nhiều câu trả lời vô vùng điên khùng. Cá nhân tôi cũng đang trả lời cho câu hỏi đó với các trải nghiệm cá nhân của mình. Khi mà có hơn một nửa số doanh nghiệp nhỏ thất bại ngay trong vòng 5 năm khởi nghiệp đầu tiên, tôi đã phải lèo lái để đưa công ty LunarStudio của mình thành công trong chừng mực nào đó và thuộc về phần còn lại.
Bạn và tôi đều cần chia sẻ thông tin và trải nghiệm
Bằng cách giúp đỡ các họa sĩ đồng nghiệp các các doanh nghiệp đang ở trong tình cảnh tương đồng thông qua các thảo luận rành mạch về vấn đề này, tôi hy vọng mình sẽ tăng được các chuẩn mực và đánh giá cho bản thân. Nếu chúng ta có dịp làm việc cùng nhau (và ngồi với nhau) để giúp xác định mẫu số chung thấp nhất cho bất kỳ hợp đồng đơn lẻ nào mà chúng ta cần tính phí cho mình, thì chúng ta có thể sẽ cương quyết ngăn cản các giá thầu rẻ rúng – những mức lương thường dẫn tới các nguy hại nhiều hơn là lợi ích.
    Hãy khẳng định chất xám của bạn ngay từ mức thù lao mà bạn đưa ra
Các họa sĩ và những người làm việc tự do cũng cần phải bắt đầu nhận biết và thẩm định được giá trị công việc, thời gian và những nỗ lực của họ, ngừng ngay việc bán rẻ chính bản thân họ chỉ với những mục tiêu ngắn hạn.
Cũng giống như tôi không thích nghĩ về các tác phẩm của mình “như là một món hàng” theo quan điểm của triết học, trở thành một “người chuyên nghiệp” đòi hỏi mỗi bản thân chúng ta một ứng xử chuyên nghiệp và có tư duy nghiêm túc trong công việc và cuộc sống.
P/S: Bài viết dựa theo nguyên bản bài “What Prices to Charge as a Freelancer or Artist” của tác giả Charles Leo (LunarStudio), trong đó cá nhân người dịch  (elpvn) đã thay đổi các số liệu thống kê và một vài chi tiết cho phù hợp với thực tế ở Việt Nam, tác quyền bài dịch đã được tác giả cho phép đăng tải trên  CGEZINE X5vozExpress, vui lòng không đăng lại trên các website khác, ít nhất là cho tới khi có sự đồng ý của tác giả và cá nhân người dịch.  Hình ảnh và chú thích minh họa do cá nhân người dịch tự  biên tập cho bài viết thêm sinh động.

Bài 2 - Thiết kế đồ họa là gì?

Bài 2 - Thiết kế đồ họa là gì?
Trong bài (1) của loạt bài chuyên đề này đã đăng trên CGEZINE, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu về THIẾT KẾ ở góc độ chung, còn trong bài (2) này, chúng ta sẽ đi sâu vào khái niệm thiết kế bằng cách tìm hiểu một chút về GRAPHIC DESIGN - còn gọi là THIẾT KẾ ĐỒ HỌA. Vậy thiết kế đồ họa là gì? Và thiết kế đồ họa gồm những gì?

THIẾT KẾ ĐỒ HỌA LÀ GÌ?

Thiết kế đồ họa là quá trình chọn lựa và tổ chức từ ngữ, hình ảnh và thông điệp sang một loại hình nhằm truyền thông và tác động tới người xem (khách hàng).
Thiết kế đồ họa nhằm đạt được các hiệu quả chiến lược, sử dụng ở nhiều định dạng khác nhau như porter, website, video, audio, game, showreel, bao bì và các loại hình đóng gói khác. Thiết kế đồ họa gắn liền với các vấn đề đương thời.
Nó còn là một quy trình liên quan tới nghiên cứu, tạo lập ý tưởng, tạo mẫu và cuối cùng là liên kết giữa các yếu tố bằng ngôn từ và hình ảnh [đôi lúc còn có cả âm thanh]
THIẾT KẾ ĐỒ HỌA LÀ GÌ?
Để cùng tìm hiểu sâu thêm về thiết kế đồ họa, chúng ta hãy cùng thảo luận điều này với các nhà thiết kế đồ họa am tường và các khách hàng của họ để tìm hiểu thêm, chúng tôi sẽ có bài viết cover ở mảng này sau. Còn trong phạm vi bài viết này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu một chút về lĩnh vực thiết kế đồ họa, về nhiệm vụ, thiết kế và phân phối một sản phẩm trong lĩnh vực thiết kế đồ họa.
Dĩ nhiên thiết kế đồ họa liên quan tới nhiều mảng khác nhau như: Nghệ thuật chữ (Typography), Hình ảnh (Imagery), Visualisation (diễn họa), Âm điệu - âm nhạc (Melody),… Nhưng trong phạm vi bài này chúng ta sẽ đề cập đến 2 mảng chính trong thiết kế đồ họa, đó là Nghệ thuật chữ và Tạo hình (Typography và Imagery)

1 - Typography: Khởi nguồn của thiết kế đồ họa?

Trong mục này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu:
  • Typography có nghĩa là gì?
  • Tại sao các nhà thiết kế đồ họa lại cần đến kỹ năng này?
  • Một vài ví dụ tiêu biểu về kỹ năng Typography
Thiết kế trong vai trò là một hoạt động thương mại gắn bó chặt chẽ với tái sản xuất: Một nhà thiết kế sản xuất ra bản thiết kế gốc và sau đó là một tiến trình tái sản xuất các bản sao của nó cho khách hàng. Do vậy, nguồn gốc ban đầu của thiết kế đồ họa đóng vai trò là tái sản xuất chất liệu thị giác là phần việc do các máy in cơ khí đầu tiên được phát minh vào thế kỷ 15 đảm nhận. Với việc giới thiệu ký tự có thể di chuyển được -  các ký tự riêng biệt được khắc bằng kim loại - các chất liệu in không chỉ tái tạo và sao chép về khối lượng, mà còn là một bản ‘thiết kế’ được định trước và có thể thiết lập bằng cách sắp xếp các ký tự trong lưới in.
Trong thực tế, chế độ lưới (grid) vẫn duy trì một nguyên tắc tổ chức trong cả in ấn và thiết kế đồ họa số (CG), cho dù nó chứa các đường mà giờ đây có thể dễ dàng và linh hoạt hơn trong việc sắp xếp.

Các block ký tự có thể di chuyển và tạo lưới | Gridbooks được thiết kế bởi Astrid Stavro
Từ các ký tự có thể di chuyển dẫn đến nghệ thuật sắp chữ (còn gọi là Typography) - quá trình chọn lựa, sắp xếp và bố trí các ký tự trong một không gian nhất định - cũng như thiết kế mặt chữ. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực thiết kế đồ họa. Một phong trào lớn và có ảnh hưởng trong  nghệ thuật chữ chính là International Typographic Style (hay còn gọi là Swiss Style), một trường phái được sáng lập tại Thụy Sĩ vào những năm 1950. Phong cách này trình bày rất rõ ràng, ‘đối tượng’ thẩm mỹ sử dụng kiểu chữ Sans-serif và thường là kiểu ‘hình học’ được đặt trên một lưới và có xu hướng được các nhiếp ảnh gia ưa dùng trong các minh họa ảnh.
< Phong cách này được minh họa trong một poster quảng cáo một sản phẩm của Giselle ở nhà hát Municipal Theater tại Basle, được tạo bởi nhà thiết kế đồ họa người Thụy Sĩ có tên là Armin Hoffman vào năm 1959.
Một sản phẩm khác của trường phái International Typographic Style chính là Helvetica, một mặt chữ được sử dụng tự do trong các bản thiết kế nhận diện doanh nghiệp trong nhiều năm qua. Nó dduwwocj phát triển (như một phiên bản font Akzidenz Grotesk cuối thế kỷ 19) vào năm 1957 bởi các nhà thiết kế mặt chữ người Thụy Sĩ có tên là Max Miedinger và Edüard Hoffmann, những người sau đó là đồng giám đốc của Haas Type Foundry ở Thụy Sĩ. Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về điều này và thiết kế đồ họa nói chung, vui lòng xem thêm bộ phim có tên là Helvetica của Gary Hustwit được sản xuất vào năm 2007.
Graphic DesignGraphic Design
Khăn quàng cổ được trang điểm với các ký tự Helvetica viết in hoa, một sản phẩm được thiết kế bởi Little Factory (hình bên trái). Logo Orange sử dụng kiểu chữ Helvetica - được thiết kế bởi Wolff Olins vào năm 1994 (hình bên phải)
Là một nhà thiết kế, bạn luôn phải làm việc với các mặt chữ, các ký tự,Benjamin Tomlinson, giám đốc sáng tạo tại công ty Ico Design Consultancy hóm hỉnh chia sẻ. ‘Bạn không thấy điều gì [diễn họa thiết kế] mà không dùng chữ và cấu trúc lưới là bộ khung cho một sự sắp xếp chữ hoàn hảo, cũng như bố cục màu sắc, các mảng trong bản thiết kế - bất kỳ thứ gì liên quan đến nó. Sử dụng lưới và kiến thức về bố cục cũng là một nghệ thuật; bạn cần ngày càng hoàn thiện các kỹ năng này theo thời gian. Mọi người thường nói rằng các ý tưởng là điều quan trọng nhất, nhưng nếu bạn không thể biến các ý tưởng đó thành một bản thiết kế tốt thì chúng chẳng được dùng. Sắp xếp (layout), bố cục (composition) và  nghệ thuật chữ (typography) sẽ giúp bạn chinh phục bất kỳ công việc nào liên quan tới thiết kế đồ họa.
Trong thực tế, Freda Sack, chủ tịch của hiệp hội các nhà thiết kế chữ quốc tế - viết tắt là ISTD (International Society of Typographic Designers) - tuyên bố rằng ‘các nhà thiết kế giỏi trước hết phải là những nghệ nhân chữ - các typhographer’, và ông minh họa quan điểm này bằng cách trích dẫn một số nhà thiết kế đồ họa hàng đầu như: Wim Crouwel, Derek Birdsall, Paul Rand, Ivan Chermayeff và Josef Müller-Brockmann.
Các sinh viên, học viên - những người cần ‘lĩnh hội’ nghệ thuật chữ để trở thành các nhà thiết kế, các nhà truyền thông giỏi. Họ phải nhận thức được rằng đó không chỉ là về ‘sự quỷ quái trong chi tiết’, dù đó là điều quan trọng, mà còn vì nó được sử dụng  để phân chia không gian và cấu trúc của nó là chìa khóa [để diễn họa thiết kế]’, Sack nhận định.
Graphic DesignGraphic Design
Một poster của hãng IBM được thiết kế bởi Paul Rand vào năm 1981 và một poster Vormgever dành cho viện bảo tàng Stedelijk Museum Amsterdam được thiết kế bởi Wim Crouwel vào năm 1968
Các ví dụ ở trên minh họa cho tất cả các loại hình thiết kế đồ họa chữ. Trong mỗi trường hợp, các chữ được viết ra nhằm cung cấp các thông tin thiết yếu cho nội dung thiết kế -  một nguyên lý chính của hầu hết mọi lĩnh vực thiết kế đồ họa - nhưng bản thân chữ cũng là nghệ thuật: Sắp xếp ký tự tạo ra bố cục và  tự bản thân hình thức mặt chữ cũng mang những phẩm chất diễn họa và nội dung đồ họa riêng.
Trong nhiều trường hợp, người ta có những nhận thức mang tính ‘bản năng’ về những gì mà họ có thể gọi là văn phạm của thiết kế đồ họa. Chẳng hạn, một tiêu ngữ trên huy chương và một mặt chữ nhỏ thường gợi cho ta một thứ gì đó mang tính tổ chức, di sản và quyền lực, trong khi một mẩu giấy chứa các ký tự cắt dán của một tờ báo có thể gợi cho ta sự liên đới đến sự mục rữa, nổi loạn và tuổi trẻ, như trong bức ảnh minh họa. Nhưng trong các ví dụ đó, các sự liên kết này phần lớn là kết quả của giao thoa văn hóa, hơn là hiện tượng công nghệ.
Bản cover của God Save The Queen được trình bày bởi nhóm The Sex Pistols - được thiết kế bởi  Jamie Reid vào năm 1977
Ở một khía cạnh thú vị khác, Reid được mô tả là một ‘họa sĩ’ chứ không phải là một ‘nhà thiết kế đồ họa’; Peter Saville thì thường được nhắc đến nhiều với những thứ liên quan tới các bản cover từng lập kỷ lục trước đó của ông.
Dĩ nhiên, chữ được làm việc trong nhiều môi trường chức năng hơn. Vào năm 2005, để tái thiết kế lại tờ báo The Guardian, các nhà thiết kế Paul Barnes và Christian Schwartz đã tạo ra một kiểu chữ riêng gọi là Guardian Egyptian (cũng giống như nhiều kiểu chữ khác - nó được đặt một cái tên riêng), một kiểu font cần thiết để cung cấp mức độ dễ đọc và rõ ràng hơn cho các cột ở các trang tin ngày càng dày đặc.
Với chỉ hơn… 200 font, ‘dòng font Guardian là một trong những chương trình chữ có nhiều tham vọng tùy biến nhất từng được sử dụng cho một tờ báo,’ Schwartz tuyên bố. Điều này minh họa cho tầm quan trọng của kiểu chữ đối với báo chí như lời của nhà chỉ đạo nghệ thuật Mark Porter.
Văn phạm diễn họa
Trong khi các kiểu chữ có thể sắp xếp và di chuyển được coi là xuất phát điểm của nghệ thuật typography, thì theo thời gian nó đi kèm với sự xuất hiện của nhiều loại chất liệu khác trong ngành thiết kế đồ họa, bao gồm in ấn, nhiếp ảnh, hình ảnh số và đồ họa trên màn hình (screen graphics). Dĩ nhiên, trước cột mốc bất kỳ thế hệ cơ khí hay điện tử nào cũng phải nhắc đến một mảng tác động nhiều đến lĩnh vực typography, đó là các hình ảnh vẽ tay, với các thể loại như vẽ minh họa, phác thảo kịch bản, vẽ và phác họa…
Giống như hầu hết các loại hình truyền thông, thiết kế đồ họa đã phát triển một văn phạm riêng của nó: Một tập hợp các ‘quy tắc’ và tham chiếu để giúp bố trí và sắp xếp mọi thứ với nhau như thế nào, cũng như làm thế nào để đọc và hiểu các bản thiết kế. Một vài trong số các quy chuẩn này đã bị ảnh hưởng, hoặc thậm chí là sửa đổi, bởi các chính các quy trình sản xuất chúng, phần còn lại là do văn hóa. Một ví dụ về sự ảnh hưởng của các kỹ thuật sản xuất có thể được dễ dàng nhận thấy trong quy trình định vị doanh nghiệp, trong đó thì chi phí in ấn các logo nhiều màu sắc được hạn chế tối đa trong các bản thiết kế phức tạp.
Simon Meek, giám đốc công ty thiết kế trực tuyến Okayso diễn giải: ‘Nếu bạn in ấn với các màu sắc tại chỗ - thì theo truyền thống có thể sử dụng hệ thống màu Pantone, một hệ thống có độ chính xác cao nhất hiện nay - mỗi màu sẽ cần một bản film và bản kẽm riêng. Do vậy trong công tác in ấn mang tính nhận diện doanh nghiệp, logo thường được tổ chức tối đa ở hai màu vì việc in ấn sẽ ngày càng đắt đỏ nếu sử dụng nhiều màu với số lượng in ấn lớn. Đó là tại sao bạn thấy những logo chỉ có màu đen/trắng như logo của BBC hay chỉ có màu xanh như logo của Microsoft hay Intel. Một phần cho những biện minh của cuộc cách mạng tái thiết kế vào năm 1997 và giảm thiểu thời gian và tiền bạc cho việc in ấn.’

2 - Liệu thiết kế đồ họa có phải chỉ là việc tạo ra hình ảnh?

Trong phần này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu các vấn đề sau:
  • Các nhà thiết kế đồ họa tạo dựng hình ảnh như thế nào
  • Phân biệt giữa nghệ thuật thương mại và thiết kế đồ họa
  • Điểm qua một số loại hình ảnh khác nhau
Khi mà thời điểm phát minh ra các ký tự có thể sắp xếp (di chuyển) được trong lĩnh vực in ấn có thể được coi là khởi nguồn của Typography, theo thời gian tất cả các loại tư liệu đi kèm với các thiết kế đồ họa  gấp, bao gồm in ấn, nhiếp ảnh, hình ảnh số và đồ họa màn hình. Dĩ nhiên, xuất phát của đồ họa thủ công hay đồ họa máy tính đều là các hình ảnh vẽ tay như minh họa, phác thảo,…
‘Cũng giống như hàng trăm ngàn mặt chữ hay các phương thức tạo dựng các ngôn từ, cũng có hàng tá cách tạo ra các hình ảnh,’ nhà thiết kế đồ họa Quentin Newark giải thích. ‘Bạn có thể sử dụng các biểu tượng, bạn có thể vẽ, có thể sử dụng các bức ảnh, và nhiếp ảnh ngày nay có thể sử dụng thêm nghệ thuật manipulated để tạo ra những hình ảnh mong muốn. Bạn có thể tham khảo thế giới nghệ thuật, cũng có thể sử dụng các tư liệu lịch sử, cũng có thể  tự tạo ra các hình ảnh cho chính mình. Do vậy, có thể nói không chỉ có một cách duy nhất để tạo ra hình ảnh hay sử dụng hình ảnh.'
Graphic Design
Dylan Poster - minh họa bởi nhà thiết kế Milton Glaser (bên trái).Bức ảnh của David Bowie trong album Heathen của anh với ảnh bìa được thiết kế bởi Jonathan Barnbrook (bên phải)
Nhà thiết kế Neville Brody lập luận rằng, thông qua việc sản xuất và sử dụng hình ảnh, bạn có thể theo dõi sự phát triển của những gì mà nhiều người trong số chúng ta giờ đây vẫn gọi là thiết kế đồ họa. Nhà minh họa, họa sĩ kiêm chuyên gia in ấn ở thế kỷ 19 - ông Henri Toulouse-Lautrec là một trong những nhà thiết kế đồ họa đầu tiên - theo Brody thì bởi vì ông ấy là một họa sĩ làm việc ở dạng thương mại và có dự định tái bản nhiều lần các tác phẩm của ông. ‘Trong một cách nào đó, nó quay lại nguồn gốc của những gì mà bạn gọi là thiết kế đồ họa. Nếu bạn nhìn lại một ai đó như Toulouse-Lautrec, thì sẽ thấy ông ấy không chỉ dẫn dắt doanh nghiệp, nhận các hồ sơ thầu khoán, tìm các bối cảnh, nghiên cứu và tìm hiểu cũng như thực hiện các bức vẽ - mà ông ấy còn đảm nhận in ấn, phân phối các tác phẩm nữa. Từ những khởi điểm nhỏ như vậy, chúng ta có thể hình dung về những gì mà chúng ta gọi là một họa sĩ thương mại,’ Brody nói.
Graphic DesignPoster có tên là Ambassadeurs: Aristide Bruant dans son cabaret được thiết kế bởi Henri Toulouse-Lautrec vào năm 1892
Và Newark lần theo ý tưởng này bằng cách thực hành nó với các bức ảnh cũng như các từ ngữ được sử dụng trong thế kỷ 20 khi mà các nhà thiết kế đồ họa nổi tiếng như Milton Glaser trình diễntruyền thông hình ảnh với ngày càng nhiều hình ảnh và ngôn từ, cho tới thế kỷ 21 - khi mà chúng ta tiếp tục được thấy nghệ thuật minh họa đang dẫn dắt nhiều xu hướng truyền thông hình ảnh.
‘Minh họa, nếu bạn muốn chỉ định bằng một từ nào đó, là một khía cạnh của việc tạo hình hay xây dựng hình ảnh,’ Newark cho biết. ‘Một số nhà thiết kế đồ họa không khác gì các nhà minh họa. Do vậy, với một nhà thiết kế đồ họa như Milton Glaser hay Seymour Chwast, họ cũng là những nhà minh họa và cũng thực hành thiết kế đồ họa. Và một ví dụ điển hình gần đây là những người giống như Paul Davis đang làm, anh ta có thể vẽ, nhưng cũng có thể làm cho các bức vẽ của mình nói (phát ra âm thanh), do đó có thể coi anh ấy sử dụng ngôn từ và ngôn ngữ, các bong bóng tư tưởng, các bong bóng phát âm,… và là một nhà thiết kế rất có năng lực theo phong cách riêng của mình. Ý tôi muốn nói, các cuốn sách về thiết kế và nhiều tác phẩm của anh xuất phát từ nghệ thuật manipulate và đặt các bản vẽ của anh vào đó, anh ấy còn hơn là một nhà tạo hình thông thường.’
Theo nhà thiết kế kiêm kịch bản gia, ông Adrian Shaughnessy, thì minh họa đã trở thành một yếu tố rất phổ biến trong nhiều thiết kế đồ họa liên quan đến xây dựng thương hiệu trong một vài năm qua. Điều này một phần là kết quả mong muốn của các doanh nghiệp đang gia nhập vào môi trường toàn cầu hóa và trong vai trò lính đánh thuê: Minh họa là một loại hình mang tính ‘nhân bản’ và cá thể của truyền thông hình ảnh. Nó cũng là một phần của thực tế rằng các nhà thiết kế và minh họa đang ngày càng thích nhúng nghệ thuật chữ (typography) vào tác phẩm của họ.  Điều này tạo ra một ‘thông điệp quyến rũ mới nhờ kết hợp trực tiếp Typography với các giác quan quyến rũ của minh họa, pattern và tạo dáng’, Adrian nhận định trong tạp chí Eye magazine.
Graphic Design
Xe tải bạt - do Chris Gray minh họa  vào năm 2008- một tác phẩm thiết kế dành cho hãng chế tạo túi Freitag
Đó là công việc mà nhà thiết kế đồ họa chọn lựa, phát triển và cấu trúc hình ảnh, bảng màu, bố cục trình bày, các sản phẩm giấy, các kỹ thuật in và tổng thể các phong cách đồ họa theo một cách nào đó để giúp các khách hàng của họ đạt được một hiệu quả mong muốn. Tùy theo tính chất của dự án, người thiết kế và khách hàng, tiến trình này có thể cho phép thoải mái thể hiện nghệ thuật hoặc gắn chặt nó với những đòi hỏi thương mại nhất định nào đó. Trong nhiều trường hợp, chính sức ép giữa hai phương thức tiếp cận này sẽ tạo ra những tác phẩm tốt nhất và hiệu quả nhất.
Một số thuật ngữ cần biết trong thiết kế đồ họa:
  • Graphic Designer: Nhà thiết kế đồ họa
  • Typography: Nghệ thuật chữ
  • Imagery: Tạo hình, hình ảnh
  • Computer-Generated Imagery (CGI): Hình ảnh được tạo từ máy tính
  • Computer Graphics Industry (CGI): Nền công nghiệp đồ họa máy tính
  • Digital Double: Đối tượng bản sao bằng đồ họa máy tính (chẳng hạn như diễn viên được số hóa)

Bài 1 - Thiết kế là gì?

Bài 1 - Thiết kế là gì?
Có vô số định nghĩa về thiết kế (còn gọi là design) mà bạn có thể mong đợi từ một nỗ lực sáng tạo nào đó trong ngôn từ. Một vài người tìm cách phân loại chủ đề thiết kế để diễn giải sự khác biệt hay liên quan của nó với các hoạt động khác, trong khi số khác lại tìm cách truyền cảm hứng đó vào thiết kế. Chúng ta sẽ tìm hiểu một vài điều về lĩnh vực thiết kế thông qua bài I của loạt bài chuyên đề đặc biệt này của CGEZINE.
Sau đây là phần I trong loạt bài chuyên đề đặc biệt của CGEZINE về lĩnh vực thiết kế đồ họa, các bài viết trong loạt bài này được Lê Thùy Linh (CGEZINE) biên dịch từ cuốn "The brief of Design" của Matt Hunter - cuốn này nằm trong bộ giáo trình năm nhất của khoa Đồ họa truyền thông, đại học University of the Arts London - nơi Linh đang theo học.

THIẾT KẾ LÀ GÌ?

“Thiết kế là những gì liên kết sự sáng tạo và đổi mới. Nó định hình các ý tưởng để trở thành những đề xuất thực tiễn và hấp dẫn người dùng hoặc khách hàng. Thiết kế có thể được mô tả như sự triển khai sáng tạo đến một mục đích cụ thể nào đó.” - Theo George Cox, trưởng khoa Đồ họa, Trường đại học Luân Đôn.
Hầu hết các kết quả của design đều trực quan (có thể nhìn thấy), và nó xuất phát từ một định nghĩa đơn giản khác: ‘Thiết kế là tất cả những gì xung quanh bạn, mọi thứ do con người làm ra đều đã được thiết kế, dù có ý thức hay vô thức’. Câu hỏi đặt ra ở đây không chỉ là 'Thiết kế là gì và nó ảnh hưởng gì đến bạn?' mà còn là 'Làm thế nào để tôi có thể sử dụng thiết kế để làm thế giới xung quanh tôi tốt hơn?'
THIẾT KẾ LÀ GÌ?

THIẾT KẾ KHÁC VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC NHƯ THẾ NÀO?

Có lẽ thuộc tính rõ ràng nhất của thiết kế là nó làm cho các ý tưởng hữu hình, nó tạo ra từ những tư duy trừu tượng và các nguồn cảm hứng khác nhau, và biến một điều gì đó trở nên hiện thực hơn. Trong thực tế, mọi người thường nói rằng các nhà thiết kế (designer) không chỉ nghĩ và ‘biên dịch’ các ý nghĩ đó thành dạng hữu hình, mà họ thực sự phải tư duy nó thông qua những việc làm cụ thể. Điều này cho phép biến những ý tưởng mới trở thành hiện thực ngay từ giai đoạn đầu trong quá trình phát triển sản phẩm hay dịch vụ, nhằm giúp chúng có có hội thành công lớn hơn.
Mặt khác, đôi lúc mơ hồ hơn, thuộc tính của thiết kế chính là đặt con người làm trọng tâm - hay có thể gọi là các vấn đề liên quan đến thiết kế luôn xoay quanh con người. Các nhà thiết kế thỉnh thoảng cũng tự biếm họa rằng nó như là một sự ám ảnh bản thân, nhưng có một thực tế là những nhà thiết kế giỏi thường dành phần lớn sự quan tâm của mình về con người thực - những người sẽ sử dụng sản phẩm, dịch vụ, công trình hay trải nghiệm mà họ phát triển và thiết kế. Điều này tập trung vào những nguwoif dùng truyền các cảm hứng tuyệt vời và đảm bảo đáp ứng các giải pháp thiết kế phù hợp với những nhu cầu thực tế, dù người dùng có nhận thức được đầy đủ điều đó hay không đi nữa.
THIẾT KẾ KHÁC VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC NHƯ THẾ NÀO?
Quy trình thực dụng này định hình các ý tưởng và sau đó cố gắng gắn kết chúng với người dùng sao cho họ cảm thấy thiết kế có một khả năng đặc biệt để tạo ra những điều đơn giản. Bất cứ điều gì quá phức tạp để lĩnh hội, truyền thông hay thực thi đều được mổ xẻ sớm. Coe lẽ đây là lý do tại sao mà các thiết kế thực sự thành công hiển nhiên đều có chung một cảm xúc đối với người xem.
Cuối cùng, thiết kế còn có nghĩa là sự cộng tác. Phẩm chất kép của sự hữu hình và trọng tâm là con người có nghĩa là quy trình thiết kế là một môi trường cộng tác tuyệt vời. Các quá trình thiết kế đang ngày càng được sử dụng như là một phương thức để cho phép các nhóm các designer và những người không phải là designer  cùng làm việc với nhau để giải quyết các vấn đề lớn trong thiết kế.

CÁC DESIGNER THIẾT KẾ NHƯ THẾ NÀO?

Mọi nhà thiết kế đều có một chút khác biệt trong cách tiếp cận và chuyên môn thiết kế, cũng chính vì thế mà họ thường có cách làm việc khác nhau. Nhưng có một vài hoạt động chung đối với tất cả các nhà thiết kế, điều mà chúng ta có thể minh họa và gọi đó là một mô hình ‘Kim cương’ trong lĩnh vực thiết kế.
CÁC DESIGNER THIẾT KẾ NHƯ THẾ NÀO?
Mô hình này phân chi quy trình thiết kế thành 4 giai đoạn riêng, đó là: Khám phá, Định hình, Phát triển và Phân phối, nó phản ánh các giai đoạn trong quy trình thiết kế từ các xuất phát điểm của các tư duy và khả năng rộng lớn tới các tình huống mà họ đang cố thu hẹp và tập trung chính xác vào các đối tượng, mục tiêu cụ thể. 4 giai đoạn của quy trình này bao gồm:
Giai đoạn khám phá | Discover
Mảnh ghép đầu tiên của mô hình kim cương phủ lên toàn bộ giai đoạn xuất phát của quy trình thiết kế. Các nhà thiết kế nỗ lực quan sát thế giới theo một cách mới mẻ, đặt sự chú ý của họ vào những điều mới mẻ và tìm kiếm các cảm hứng mới. Họ thu thập những hiểu biết, phát triển một tùy chọn về những gì họ thấy, quyết định những điều gì là mới mẻ và thú vị, và những gì sẽ là cảm hứng của các ý tưởng mới. Các phương pháp cụ thể trong giai đoạn này bao gồm: Nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người dùng, quản lý và lập kế hoạch và thiết kế các nhóm nghiên cứu.
Giai đoạn định hình | Define
Miếng ghép thứ hai này đại diện cho giai đoạn định nghĩa thiết kế, giai đoạn mà các nhà thiết kế cố gắng để định hình những gì họ đã thu được từ giai đoạn ‘Khám phá’ trên. Đâu là vấn đề lớn nhất? Điều gì chúng ta phải hành động trước? Mục đích ở đây là phát triển một bản hồ sơ sáng tạo, làm thành bộ khung cho thách thức thiết kế cơ bản cho tổ chức. Các phương pháp chủ yếu trong giai đoạn này được sử dụng là: Phát triển dự án, quản lý dự án, và ký kết dự án.
Giai đoạn phát triển | Develop
Miếng ghép thứ 3 đánh giấu một giai đoạn phát triển - giai đoạn mà các giải pháp sẽ được xác lập, tạo nguyên mẫu, thử nghiệm và lặp đi lặp lại. Tiến trình của thử nghiệm và dò lỗi này giúp người thiết kế cải thiện và tối ưu các ý tưởng của họ. Những hoạt động và mục đích chính trong suốt quá trình phát triển này bao gồm: Brainstorming , tạo mẫu, làm việc đa nhiệm, quản lý hình ảnh, phát triển các phương pháp và thử nghiệm.
Giai đoạn phân phối | Deliver
Miếng ghép cuối cùng của mô hình kim cương chính là giai đoạn phân phối, giai đoạn mà sản phẩm hoặc dịch vụ được hoàn thiện và ra mắt thị trường. Các hoạt động và mục tiêu chính của giai đoạn này là: Kiểm tra lần cuối, phê chuẩn, khởi động và ra mắt, các chu trình định giá và phản hồi sản phẩm.
Quy trình sáng tạo vô cùng phức tạp, thật khó để nắm bắt và mô tả nó một cách đơn giản!
CÁC DESIGNER THIẾT KẾ NHƯ THẾ NÀO?

CÁC DOANH NGHIỆP SỬ DỤNG CÁC NHÀ THIẾT KẾ NHƯ THẾ NÀO?

Trong hầu hết các doanh nghiệp hiện đại, thiết kế được sử dụng ở mọi cấp độ của kinh doanh, từ chiến lược cao cấp - giúp đỡ tìm ra các cơ hội mới để phát triển, đến các thực thi chi tiết - đảm bảo cho mọi trải nghiệm mà một khách hàng mong muốn và mức độ lôi cuốn mà nó có thể mang lại.
Điều cốt lõi trong việc sử dụng thiết kế một cách hiệu quả ở bất kỳ cấp độ nào chính là một bản chỉ dẫn sáng tạo. Bản trích lục này xác định thách thức, vấn đề cần giải quyết, cơ hội để hiện thực hóa. Viết một bản hồ sơ hiệu quả chính là một bài tập sáng tạo mà bạn cần phải vượt qua.
Bản chỉ dẫn này sau đó được giải quyết bởi một nhóm thiết kế được chọn lọc. Một vài doanh nghiệp chọn từ các nhóm thiết kế của công ty họ, trong khi một số khác sử dụng các nhóm thiết kế đến từ các công ty thiết kế bên ngoài. Hầu hết các doanh nghiệp sử dụng và kết hợp cả hai cách này. Điều này liên quan nhiều đến tư duy và quản lý thiết kế.
CÁC DOANH NGHIỆP SỬ DỤNG CÁC NHÀ THIẾT KẾ NHƯ THẾ NÀO?

ĐIỀU NÀY ẢNH HƯỞNG GÌ TỚI CÁC NHÀ THIẾT KẾ?

  • Họ nghĩ về việc liệu tác phẩm của họ sẽ ảnh hưởng đến những người sẽ dùng nó như thế nào, ở góc độ cá nhân cũng như một phần của xã hội. Các nhà thiết kế thường liên kết một mảng người dùng rộng rãi trong các dự án thiết kế.
  • Thông qua việc tìm hiểu và học hỏi về các nguồn nhân lực cần thiết để sản xuất một sản phẩm hay phân phối một dịch vụ, các nhà thiết kế có thể tạo ra một giải pháp nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường xung quan của chúng ta.
  • Các nhà thiết kế làm việc với các nhà sản xuất, các thương nhân và các cố vấn về sở hữu trí tuệ cũng như các nhà tư vấn doanh nghiệp để đảm bảo rằng các ý tưởng của họ có thể tạo ra lợi nhuận.
Một số thuật ngữ cần biết trong thiết kế:
  • Workflow: Quy trình làm việc
  • Senior Designer: Nhà thiết kế kỳ cựu
  • Chief Design Officer: Trưởng phòng thiết kế
  • Design Supervisor: Giám sát thiết kế
  • Producer: Nhà sản xuất
  • Visualization: Diễn họa